Tác giả: TS.BS Trần Ngọc Tuấn – ĐV SHPT
- BỐI CẢNH
Vào cuối mỗi năm, một đợt dịch viêm tiểu phế quản xảy ra và ảnh hưởng đến 30% trẻ dưới một tuổi. Viêm tiểu phế quản biểu hiện ở các triệu chứng hô hấp đôi khi kèm theo sốt và khó bú. Virus hợp bào hô hấp (RSV) là loại virus được phân lập thường xuyên nhất ở mẫu phết mũi họng. Người ta ước tính rằng 3 – 5% trẻ sơ sinh dưới một tuổi phải nhập viện vì viêm tiểu phế quản do RSV mỗi năm (tương ứ ng với khoảng 30.000 trẻ em ở Pháp). Tuổi vẫn là yếu tố thiết yếu quyết định nguy cơ nhập viện với nguy cơ đặc biệt cao đối với trẻ dưới 6 tháng tuổi.
Sinh non là một trong những yếu tố nguy cơ liên quan quan trọng nhất đối với nhiễm trùng đường hô hấp nặng do RSV, do nồng độ kháng thể của mẹ thấp và tính dễ bị tổn thương ở phổi của bệnh nhân, trong đặc biệt đối với những trẻ sinh ra trước 32 tuần vô kinh (SA = Semainesd’Aménorrhée) và/hoặc có biểu hiện loạn sản phế quản phổi.
Mỗi năm, dịch RSV là nguyên nhân gây ra tình trạng quá tải tại các phòng khám và bệnh viện (trước hết là phòng cấp cứu, cũng như K hoa Nhi và NICU) bên Châu Âu và Mỹ.
Đối với những nhóm có nguy cơ cao nhất, bao gồm trẻ sơ sinh sinh non trước 29 tuần, trẻ sinh trước 32 tuần với các yếu tố nguy cơ như trẻ sinh ra mắc bệnh tim bẩm sinh hoặc bệnh lý phổi nghiêm trọng khác, biện pháp phòng ngừa d ựa trên việc tiêm hàng tháng trong mùa dịch bệnh một kháng thể đơn dòng, palivizumab, với liều 15 mg/kg/lần tiêm, đã được cấp phép tiếp thị để điều trị dự phòng các bệnh nhiễm trùng liên quan đến RSV từ năm 1998-1999. Thuốc này đắt tiền (cả nghìn euro cho mỗi bệnh nhân) và phải dùng nhiều lần (5 mũi tiêm trong mùa đông), dành riêng cho trẻ em có nguy cơ cao. Hiệu quả của palivizumab đã được chứng minh so với giả dược về tỷ lệ nhập viện do nhiễm RSV (4,8% so với 10,6% ở nhóm giả dược, tức là giảm 55%) ở trẻ sinh non.
2. DỮ LIỆU GẦN ĐÂY
Mùa dịch RSV vừa qua đặc biệt nghiêm trọng và làm rung chuyển một hệ thống chăm sóc sức khỏe vốn đã mong manh, bởi sự phát triển sớm bất ngờ của nó dẫn đến tình trạng thiếu giường bệnh, nhu cầu hủy bỏ chương trình can thiệp không khẩn cấp để giải phóng giường và nhân viên y tế, cũng như chuyển bệnh nhân qua khu vực khác.
Gần đây, các phương pháp tiếp cận mới để ngăn ngừa nhiễm trùng đường hô hấp do RSV ở trẻ sơ sinh một mặt dựa trên kháng thể đơn dòng mới, nirsevimab, mặt khác dựa trên việc tiêm chủng cho phụ nữ mang thai chống lại RSV.
Nirsevimab là một kháng thể đơn dòng tái tổ hợp được nhân bản hóa trực tiếp chống lại vị trí O (được bảo tồn cao) của protein F.
Ái lực của kháng thể này với RSV lớn hơn ái lực được mô tả đối với palivizumab. Nó hoạt động in vitro chống lại RSV loại A và B; trường hợp virus kháng thuốc rất hiếm.
Ngoài ra, nirsevimab thể hiện sự biến đổi vùng vị trí gắn kết IgG được quan tâm trên thụ thể Fc ở trẻ sơ sinh (FcRn), giúp kéo dài đáng kể thời gian bán hủy của thuốc với hiệu quả kéo dài ít nhất 5 tháng, khiến có thể cân nhắc tiêm một lần để bao trùm cả một mùa dịch.
Gần đây, nghiên cứu mở “HARMONIE” bao gồm hơn 8.000 trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có sức khỏe tốt và so sánh số ca nhập viện vì viêm phế quản RSV giữa những đứa được tiêm một mũi nirsevimab (nhóm can thiệp) và những đ ứa được chăm sóc tiêu chuẩn (Nhóm đối chứng). ). Số ca nhập viện vì viêm tiểu phế quản do RSV giảm 83% (0,3% so với 1,5%, p<0,001).
Gần đây, nghiên cứu mở “HARMONIE” bao gồm hơn 8.000 trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có sức khỏe tốt và so sánh số ca nhập viện vì viêm phế quản RSV giữa những đứa được tiêm một mũi nirsevimab (nhóm can thiệp) và những đ ứa được chăm sóc tiêu chuẩn (Nhóm đối chứng). ). Số ca nhập viện vì viêm tiểu phế quản do RSV giảm 83% (0,3% so với 1,5%, p<0,001).
3. KHUYẾN NGHỊ
Việc thúc đẩy nuôi con bằng sữa mẹ, các biện pháp rào cản và chống lại các cuộc tấn công vào đường hô hấp (môi trường, hút thuốc thụ động, v.v.) vẫn là ưu tiên hàng đầu vì các loại virus khác ngoài RSV cũng liên quan đến bệnh viêm tiểu phế quản vào mỗi mùa đông. Giáo dục người dân nói chung về các biện pháp rào cản này là điều cơ bản trên tuyến đầu của cuộc chiến chống lại tất cả các dịch bệnh ở trẻ em.
Theo nghiên cứu HARMONIE, người ta đề xuất rằng nirsevimab có thể được dùng cho tất cả trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi khi bắt đầu giai đoạn dịch RSV tiếp theo.
Liều được xác nhận trong các nghiên cứu trước đây và nằm trong khuôn khổ Giấy phép Tiếp thị Châu Âu là 50 mg cho trẻ em dưới 5 kg và 100 mg cho trẻ nặng trên 5kg.
Nirsevimab được ưa chuộng hơn palivizumab vì tính hiệu quả, độ an toàn tương tự, việc đơn giản hóa lịch tiêm do thời gian bán hủy tăng lên (một mũi tiêm thay vì 5) và giá của nó. Vắc xin dành cho phụ nữ mang thai chưa được cấp phép lưu hành nhưng vị trí của nó cũng cần được xem xét trong chiến lược kết hợp với nirsevimab, và sẽ được xác định cụ thể bằng nhiều nghiên cứu hơn.
4. KẾT LUẬN
Cuối cùng, điều quan trọng là các cơ quan y tế công cộng phải trao đổi với người dân về các chiến lược phòng ngừa viêm phế quản RSV, để giúp nhân viên y tế và các tổ chức khoa học phổ biến các thông điệp y tế công cộng, nhằm mục đích tránh tình trạng quá tải các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
5. SOURCES:
- Pediatric Infectious Disease Pathology Group
- French Society of Neonatology
- CDC (2020-12-18).”Trends and Surveillance for RSV in the US”. Centers for Disease Control and Prevention. Retrieved 2021-08-10 .
- Synagis 100 mg/ml solution for injection – Summary of Product Characteristics (SmPC)”. (emc). 12 August 2020. Retrieved 20 August 2020.
- “Synagis EPAR”. European Medicines Agency(EMA). 17 September 2018. Retrieved 20 August 2020.
- https://www.sanofi.com/fr/media-room/communiques-de-presse/2023/2023-07- 17-17-00-00-2705911
- https://www.astrazeneca.com/media-centre/press-releases/2023/nirsevimab recommended-for-infant-rsv-protection.html